Thời đại mạt pháp, chúng sinh nghiệp chướng nặng nề, phước báo mỏng manh. Người học đạo thì nhiều, song người được đạo lại rất ít... 1.Nhẫn nhục Tu pháp nhẫn nhục là quá trình thẳng tắt để thành tựu đạo nghiệp. Trong Lục độ, đặc biệt có hạnh nhẫn nhục. Đời người thành tựu được tất cả là biết nương vào đức tính nhẫn nhục. Kinh Kim Cang đặc biệt đề cập đến “được thành tựu hạnh nhẫn nhục”, cho chúng ta thấy đức thế Tôn quá khứ về trước 500 đời là tiên tu hạnh nhẫn nhục. Khi Ngài đối diện với việc Ca-lợi Vương cắt đứt thân thể; tứ chi và các khớp xương liên tiếp bị cắt rời, Ngài vẫn có thể nhẫn nhục không sinh tâm sân hận, do lúc đó, Ngài thấy không có tướng ngã, nhân, chúng sinh hay thọ giả, về sau được Phật Nhiên Đăng thọ ký cho thành Phật. Vì thế, công đức nhẫn nhục không thể nghĩ bàn. Người học Phật nên tu hạnh nhẫn nhục, tôn Phật Thích Ca làm Thầy, dùng hạnh nhẫn nhục để thành tựu đạo nghiệp. 2. Quán chiếu chính mình Ta luôn đối diện với thói quen xấu cùng với nhiều chướng ngại từ vô thủy kiếp đến nay. Cho nên trong sự tu hành, chúng ta luôn luôn hoặc thỉnh thoảng phạm phải sai lầm; có khi nổi giận hay xích mích, gây gổ với người đời. Lúc này chúng ta cần phải quán chiếu lại chính mình. Dùng tâm từ bi để đối đãi tất cả thế gian. Dùng tâm nhẫn nhục để đón nhận những hành động tàn bạo xảy đến với chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. 3. Xả Các kinh như Kim Cang, kinh Tâm chỉ dạy chúng ta chữ “xả”. Cần phải xả bỏ, buông xuống tất cả, những cảm giác không chấp trước cũng không còn. Đây mới chính là chân thật xả bỏ, buông xuống, không chấp trước. 4. Sám hối Cuộc sống hằng ngày, chúng ta luôn tạo bốn tội: Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối. Không những chỉ trong lời nói, hành động, cử chỉ, thậm chí đến cả khởi tâm động niệm không biết đã phạm bao nhiêu tội lỗi. Vì thế kinh Địa Tạng nói rằng: “Chúng sinh trong cõi Nam Diêm-phù-đề, khởi tâm động niệm đều là tạo nghiệp tội lỗi”. Lại còn nói rằng: “Nghiệp lớn có thể ngang bằng núi Tu-di, có thể rộng lớn như biển, hay làm chướng Thánh đạo”. Đã biết ta và người có đầy đủ nghiệp chướng phàm phu, vậy chúng ta mỗi ngày cần phải sám hối. Dùng sức mạnh sám hối để tiêu trừ cho sạch nghiệp chướng nhiều như cát sông Hằng mà ta đã tạo ra. 5. Tội từ tâm khởi, đem tâm sám hối Tội từ tâm khởi, phải đem tâm sám hối. Sám hối nhất định phải từ chỗ sâu kín trong tâm, thành thật phát tâm hổ thẹn. Sám hối lỗi lầm của mình xong thề không tái phạm. Đây mới là chân chánh như pháp sám hối. 6. Lễ lạy 88 vị Phật Phương pháp sám hối hay nhất chính là lễ lạy 88 vị Phật. Dùng phương pháp lễ lạy này để tiêu trừ nghiệp chướng từ nhiều đời trước. Trong lúc lạy Phật sám hối, đã có thệ nguyện của Chư Phật nên có thể giúp chúng ta tiêu trừ tội lỗi, tẩy trừ bốn trọng tội và Ngũ nghịch. 7. Lễ Phật sám hối Trong quá trình lễ Phật sám hối, thân lễ Phật, miệng niệm Phật, ý tưởng đến Phật, ba nghiệp thân, khẩu, ý, thanh tịnh sẽ được chư Phật theo ý bổn nguyện mà thêm sức gia bị. Như đây sám hối, tội lỗi tiêu trừ không thể nghĩ bàn, công đức đạt được cũng không thể nghĩ bàn. 8. Răn nhắc và thúc giục Tâm học Phật ban đầu của mỗi người đều rất đơn thuần, chỉ nghĩ đến việc lợi mình, lợi người và thực hành hạnh Bồ-tát, nghĩ sẽ chứng quả, thành Phật độ khắp chúng sinh. Trong quá trình tu hành, phần đông người đi lệch đường mà không tự biết; bị tiêm nhiễm tiếng tăm và lợi dưỡng cùng với tâm tham lam vinh dự hão huyền dấy khởi. Tâm đã chẳng thanh tịnh lại quên mất việc lớn sinh tử của chính mình, trọn ngày chỉ tất bật chạy tới, chạy lui cho việc công ích bên ngoài. Kết quả làm được công đức, chỉ thành phước báu nhơn thiên, vẫn ở trong lục đạo luân hồi thọ khổ. 9. Chớ quên tâm ban đầu Chúng ta trong quá trình học Phật, cần phải không quên tâm ban đầu. Giữ gìn tâm niệm thanh tịnh học Phật ban đầu, phải luôn ấp ủ và gìn giữ tâm trạng cảnh giác. Như kiểu cách người gìn giữ trật tự phải luôn để ý hành vi và ý định của chính mình có xao lãng với công việc hay không? Việc làm có dính mắc vào danh lợi hay không? Chỉ theo duyên bên ngoài mà không cần tự tỉnh? Cầu phước báu nhân thiên mà không cầu vãng sinh Tây Phương? Vừa có mảy may màu sắc danh lợi, phải lập tức sám hối tu sửa. Hơi có trái với tâm tốt lành ban đầu, lập tức hổ thẹn sửa lỗi. Như vậy mới không uổng một đời học Phật, không đến nỗi đi lạc vào đường tà. 10. Nội công và ngoại công Phần nội công và ngoại công của người học Phật cần phải song song và được coi trọng. Nội công chấp trì danh hiệu Nam mô A-di-đà Phật. Câu Nam mô A-di-đà Phật đến chết giữ không quên. Khi đi đứng, nằm ngồi luôn nhớ niệm. Ngoại công là Lục độ vạn hạnh, đoạn ác tu thiện, không sát sinh, ăn chay, phóng sinh và giúp đỡ mọi người. Nội công là chính, ngoại công là phụ. Nội công là chủ, ngoại công là kẻ tuỳ tùng. Tiếc cho người đời chỉ trọng ngoại công mà quên nội công, bỏ gốc theo ngọn, ngu si điên đảo thật đáng tiếc lắm vậy! 11. Ăn chay, phóng sinh Học Phật, điều tối quan trọng chính là cần thực hành. Trong cuộc sống không nên làm các điều ác, siêng năng làm các việc lành. Nghiệp sát sinh nặng nhất, kinh Lăng Nghiêm nói rằng: “Ăn thịt với sát sinh tội nặng giống nhau”. Ăn thịt tội bằng việc sát sinh. Vì thế trong việc đoạn ác, phải lấy không sát sinh và ăn chay làm trước. Trong tất cả các điều thiện, phóng sinh là bậc nhất. Phóng sinh chính là cứu mạng sống chúng sinh, nên công đức rất lớn. Trong các nghiệp thiện phải lấy hạnh phóng sinh cứu chuộc mạng sống chúng sinh làm đầu. Cho nên Luận Đại Trí Độ nói rằng “Trong các tội, tội giết hại rất nặng; trong các công đức, phóng sinh là bậc nhất”. 12. Bài tập quan trọng Nói đơn giản, học Phật thực tiễn phải lấy việc ăn chay làm đầu cho hạnh tu thiện. Vậy việc ăn chay và phóng sinh là hai bài tập quan trọng nhất của người học Phật 13. Thường xuyên quán chiếu chính mình Người học Phật cần thường xuyên quán chiếu lại chính mình, xem xét lời nói, hành động và cử chỉ trong cuộc sống hằng ngày của bản thân. Có những ý nghĩ không tốt, phải luôn hổ thẹn sám hối. Bằng không chúng ta vẫn mãi là kẻ phàm phu còn trói buộc, luôn làm và nói những điều phạm phải sai lầm. Vậy việc quán chiếu chính mình, lo tu sửa cho tốt mới có khả năng tiến bộ trên đường học Phật, ngày càng có thêm công đức và dần dần hướng đến cảnh giới tốt. 14. Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả Quả từ nhân đem đến. Người có trí tuệ nếu gặp sự không tốt, với vấn đề này phải biết kiểm thảo lại chính mình để tìm ra nguyên nhân, phải tìm ra chỗ thắc mắc không giải quyết được để sửa lỗi lầm. Phải biết nhân chánh thì quả tròn. Người ngu si ở trên quả báo tính toán, tìm tòi, cuối cùng chỉ uổng công vô ích, một việc nhỏ cũng không thành, cho nên Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả. Người học Phật cần phải phần nhiều từ nơi nhân hạ thủ công phu. 15. Nhà mình chính là đạo tràng Ta học Phật để đạt đến sự giác ngộ chứ không phải hướng theo duyên ngoài. Nhà chúng ta ở chính là đạo tràng tu học. Công tác sinh hoạt bản thân thể hiện sự tu hành. Trong sinh hoạt nỗ lực thật tốt làm tròn bổn phận. Hiếu thuận với cha mẹ, tôn kính các bậc sư trưởng. Tùy thời, tùy chỗ quán chiếu chính mình quay về xem xét những ý nghĩ, lời nói, hành động và cử chỉ của bản thân. Từ đó ra sức hành trì đúng đắn, sửa việc xấu thành tốt. Đây chính là người chân chánh học Phật. 16. Người học Phật gương mẫu Thông thường, chúng ta ở cương vị và công tác, hết lòng làm tốt bổn phận, đồng thời có thể trong sinh hoạt, tùy thời soi xét lại thân tâm, theo đó nên hổ thẹn sám hối lỗi lầm. Dùng tâm khiêm tốn đối với người. Trong sinh hoạt phải thường trì tụng câu Thánh hiệu Nam mô A-di-đà Phật. Ta phải hết lòng chân thật chấp trì danh hiệu Phật mới xứng đáng là người học Phật gương mẫu. 17. Khó hành đạo - dễ hành đạo Chúng ta ước muốn được thành Phật, chọn pháp tu như Thiền tông, Mật tông hay Luật tông đều phải trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp, ròng rã tu hành mới có thể thành công, chỉ nương vào tự lực nên rất khó. Khi ta chọn tu pháp môn Tịnh độ, nương vào câu Thánh hiệu Nam mô A-di-đà Phật, liền có thể một đời thành tựu vượt phàm vào Thánh. Nguyên do là chúng ta nương tựa vào sức bổn nguyện của Ngài sẽ được Ngài gia hộ nên dễ dàng thành tựu. 18. Sự quan trọng của thiện tri thức Thời đại mạt pháp, chúng sinh nghiệp chướng nặng nề, phước báo mỏng manh. Người học đạo thì nhiều, song người được đạo lại rất ít. Nhiều người đã dùng hết tâm huyết, hao tổn hết tinh thần, tiền của và sức lực để học đạo, cuối cùng lại không được gì cả. Nguyên nhân chính là do thiếu thiện tri thức dẫn đường, không chọn đúng phương pháp, lại đi lầm đường lạc mất phương hướng. Vì thế nương tựa vị thiện tri thức sáng suốt để tu hành là điều không thể thiếu. Dưới sự quan tâm và chỉ dẫn của thiện tri thức mà dụng công tu hành, tùy thời thưa hỏi mà tu sửa lấy mình, mới không đến nỗi phí công vô ích. 19. Không nên phát nguyện suông Ta đã phát nguyện thì cần phải thực hiện, không nên phát nguyện suông. Có dạng người hứa nhưng không làm tròn còn thấy không được, huống chi là đệ tử chân chánh của Phật đối trên chư Phật và Bồ-tát chứng minh phát nguyện. Vì thế cần nên thận trọng, lượng sức mà làm. Ta không nên tham vinh dự hão huyền, hào nhoáng bên ngoài hay vì hư danh phẩm vị, để lời nguyện siêu xuất của mình biến thành nguyện suông. 20. Nền tảng của sự tu hành Giới luật là nên tảng của đời sống tu hành. Nhà lầu nhiều tầng nhưng móng không chắc, lại xây cao thì về sau bất cứ sự chống đỡ nào cũng là uổng công vô ích, không sao tránh khỏi sụp đổ. Vì thế Phật dạy chúng ta phải lấy “Giới làm thầy”, ta tùy lúc, tùy nơi xem xét lại thân tâm để kiểm khảo lời nói, cử chỉ và hành động của chính mình. Hãy nhớ thôi thúc và tu sửa hành vi của mình cho được ngay thật, mới xứng đáng là đệ tử của Phật.