Khi vợ chồng xem nhau như người bạn đồng hành thì cả hai bên sẽ không đòi hỏi các quyền lợi cho bản thân, và người chồng sẽ không còn thói quen ứng xử với vợ như quan tòa, buộc vợ và con phải tuân theo. Người ta còn tính toán đong đo để được càng nhiều con số 7 càng tốt. Chẳng hạn, họ sẽ tổ chức vào 7 giờ 7 phút sáng hoặc tối, mời 7 cặp cô dâu và chú rể phụ, làm 7 loại bánh với 7 sắc màu… Nói chung, càng nâng cao cấp số cộng của con số 7 thì niềm tin vào sự may mắn càng gia tăng. Ước muốn một đời sống hôn nhân hạnh phúc trên nền tảng biểu tượng của con số 7 phản ánh thái độ và lòng quyết tâm duy trì cuộc hôn nhân như một khế ước xã hội lâu dài. Nhưng bản chất của sự lâu dài với hiểu biết của hai trái tim yêu thương đến mức độ nào thì đời sống sẽ kéo dài đến mức độ đó, nó sẽ tồn tại theo ý muốn chủ quan của con người. Nương vào quan niệm phong thủy của các con số chỉ có ý nghĩa biểu tượng cho sự ước muốn. Để biến ước muốn đó thành công thì phải cần đến rất nhiều yếu tố khác mà nhà Phật gọi là nhân quả. Đa số các nhà tư tưởng không có cảm tình về hôn nhân có thể vì đã thất bại nhiều lần. Cho nên họ thường đưa ra các phát biểu rằng “Tình yêu là bình minh của hôn nhân” và “Hôn nhân là hoàng hôn của tình yêu”. Vì có tình yêu cho nên hai trái tim nỗ lực nối kết thông qua cuộc đính hôn, nhưng khi đã đính hôn thì tình yêu đó dần dần phai nhạt và mất đi các giá trị ban đầu. Nhà thơ Hồ Dzếnh đã viết: “Cái buổi ban đầu lưu luyến ấy Nghìn năm hồ dễ mấy ai quên” Nhưng sự thật thì người ta quên rất nhanh và không mấy người trong chúng ta nhớ những kỷ niệm đẹp với niềm hạnh phúc dồi dào khi còn ở trong mối tình đậm đà nhiều ấn tượng. Tình yêu trong quan hệ như những người bạn có gốc rễ từ văn hóa Phật giáo. Trong kinh, đức Phật giảng cho cô con dâu cư sĩ Cấp Cô Độc. Vì cô dâu này ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ chồng, nên nhân cơ hội đức Phật đi ngang qua nhà và nhận phẩm vật cúng dường, Cấp Cô Độc đã thỉnh cầu Thế Tôn dành chút thời gian giáo dục đứa con dâu của mình. Thế Tôn đã giảng một bài kinh ngắn rất ấn tượng nói về bảy loại vợ đối chiếu với bảy loại chồng. Trong đó, loại vợ thứ tư được xem là lý tưởng nhất, “người vợ là bạn đồng hành cùng người chồng”. Cách đây 26 thế kỷ mà Thế Tôn đã dạy quan niệm hôn nhân như bạn đồng hành, điều đó cho thấy, yêu cầu về quyền lợi được giảm ở mức độ tối đa. Trong hôn nhân, ai quan niệm cần nhận được nhiều hơn cho thì hôn nhân đó đã bị đỗ vỡ ngay từ cách thức đặt vấn đề. Đây là yếu tố dẫn đến sự ly dị cao nhất của nền văn hóa phương Tây khi nền tảng kinh tế không còn đứng vững. Xem chồng như người bạn đồng hành chúng ta không chỉ quý người đó như người bạn thân, người tâm giao hoặc tri kỉ mà còn thể hiện trách nhiệm bình đẳng giữa hai bên. Điều hoàn toàn phù hợp với học thuyết bình đẳng về giới tính mà cuộc cách mạng Pháp trở thành niềm hãnh diện nhất của dân tộc nước này. Nhờ đó, thế giới phương Tây nương theo, tạo ra sự bình đẳng giữa nữ giới so với nam giới. Đôi khi sự bình đẳng đó đi quá đà, thay vì hiểu vai trò vị trí xã hội của hai bên ngang nhau thì một số người nữ có khuynh hướng đánh đồng mình như nam giới. Họ bắt đầu dấn thân vào các loại thể thao mạnh, như đô vật, quyền anh,… làm mất đi phong cách dịu dàng, mềm mại vốn có. Quan điểm đánh đồng đã vượt ra khỏi yếu tố bình đẳng. Bình đẳng mục đích là sử dụng các dữ liệu giới tính vốn có để khẳng định sự đóng góp của mình trong xã hội và cộng đồng như là một thế mạnh, không có nghĩa đánh đồng những gì mình chưa có với thế giới đàn ông và cố gắng để người ta thấy rằng đàn ông vai u thịt bắp thì phụ nữ cũng tương đồng như vậy. Đánh đồng và bình đẳng khác biệt rất cơ bản, đôi lúc nhiều phụ nữ không thấy được điều này. Càng lao theo nhiều chừng nào càng đánh mất đi nét đặc trưng của nữ tính. Khi vợ chồng xem nhau như người bạn đồng hành thì cả hai bên sẽ không đòi hỏi các quyền lợi cho bản thân, và người chồng sẽ không còn thói quen ứng xử với vợ như quan tòa, buộc vợ và con phải tuân theo. Theo SKCĐ