Quê hương tôi nằm trên vùng biển xanh cát trắng Nha Trang. Từ nhỏ, mấy chị em tôi đã được mẹ đưa về chùa làm lễ quy y, trở thành Phật tử. Chúng tôi thường được mẹ dẫn đi chùa, mẹ khuyến khích mấy chị em tôi ai học thuộc kinh Bát Nhã, chú Đại Bi thì sẽ có thưởng. Thằng em thứ ba của tôi rất thông minh, học giỏi nên chỉ trong ba ngày, nó đã thuộc và “trả bài’’ vanh vách. Còn tôi thì ì ạch lắm mới thuộc được kinh Bát Nhã. Với chú Đại Bi thì ôi thôi, chữ nào vô được trong đầu thì ngày sau nó cũng tìm đường chui ra. Tôi chẳng có hứng thú gì với những dòng chữ Phạn khô khan, khó hiểu ấy cả. Thế rồi tôi bỏ luôn không học nữa. Ba tôi thường dạy cho chúng tôi hát những ca khúc Phật giáo. Tôi còn nhớ một số bài hát mà mấy cha con đã từng hát thật say sưa. Có lẽ đây là quãng thời gian êm đềm, hạnh phúc nhất của cuộc đời tôi. Sau năm 1975, ba tôi rời thành phố Nha Trang khăn gói lên đường đi kinh tế mới. Thấm thía lẽ vô thường, sự thăng trầm của cuộc đời, cùng với những hiểu biết giáo pháp của Đức Phật, ba phát tâm ăn chay trường, sống thiểu dục tri túc, thực hành hạnh từ bi nhẫn nhục… cho đến tận bây giờ. Mẹ con chúng tôi ở nhà, giữa cái thời bao cấp đầy khốn khó, tiền lương của mẹ không đủ sống nên một mình mẹ xoay xở đủ cách để nuôi bốn đứa con. Tôi cũng tìm cách đi bỏ kẹo, thắt lá buông phụ giúp gia đình… Chị em chúng tôi cũng dần dần lớn lên dưới đôi tay yếu ớt nhưng tràn đầy tình yêu thương và nghị lực của mẹ. Học xong 12, tôi thi vào sư phạm. Ra trường, đi dạy xa nhà rồi lập gia đình. Chồng tôi cũng là giáo viên. Hai đứa con lần lượt ra đời. Vâng lời mẹ, tôi có thỉnh tượng Bồ tát Quan Âm về thờ và thắp hương hàng đêm. Nhưng thực ra, trong tôi chỉ có một niềm tin mù mờ, xa vời. Làm giấy tờ hoặc kê khai lý lịch viên chức ở mục tôn giáo, tôi luôn luôn ghi chữ “không’’. Tôi luôn cảm thấy bất an, lo sợ người ta biết nhà tôi thờ Phật, vì bấy giờ tôn giáo tín ngưỡng gần như bị liệt vào “tiêu cực và mê tín dị đoan”. Cùng với những vất vả thiếu thốn, phải hơn thua, giành giựt với đời để mưu sinh làm cho tôi càng ngày càng xa rời mái nhà tâm linh Phật giáo… Trong vòng xoáy hơn thua của cuộc đời, đôi khi tôi cảm thấy nghẹt thở, mỏi mệt và kiệt sức. Nhiều lần, nhìn tôi vô minh khổ đau tranh chấp với đời, ba tôi đem giáo pháp của Đức Phật ra giáo hóa, mong tôi sớm thức tỉnh để tu hành nhằm chuyển hóa khổ đau. Nhưng vì lưới vô minh và lòng tham lam, đố kỵ bao phủ nên những gì ba nói đều làm tôi khó chịu. Khi ba tôi giảng: “Mọi khổ đau hay hạnh phúc trên thế gian này đều là giả’’, tôi phản ứng liền. Tôi cho rằng ba sống không thực tế, những điều ba nói là viễn vông, không thực trong xã hội đầy bon chen hiện nay. Nghe tôi nói, ba buồn vì biết tôi còn quá vô mình và nhiều ngộ nhận. Ba dỗ dành: “Nếu con quá bận rộn thì hãy chọn một pháp môn phù hợp với hoàn cảnh bận rộn, đó là pháp môn Tịnh độ. Đây là con đường hay nhất để giúp con giải thoát”. Sau đó, ba đưa cho tôi quyển kinh Vô Lượng Thọ và sách Tây Phương Du Ký. Tôi về xem qua rồi… cất luôn vào tủ, chẳng mảy may ngoái nhìn. Tôi thấy những điều này sao quá hoang đường, vu vơ, không thật, giống như truyện cổ tích. Và tôi vẫn tiếp tục lao theo dòng xoáy vô minh tham đắm với đời . Thỉnh thoảng, tôi cũng có đi chùa cầu nguyện gia đình bình an, con cái học giỏi, phát lộc phát tài. Dù chưa thật sự có niềm tin vào Phật pháp nhưng vì lòng tham, lo sợ mất phước nên tôi cứ làm cho chắc, biết đâu được Phật linh thiêng độ trì cho gia đình. Tôi phung phí hơn nửa đời người vào những cuộc ăn chơi, giành giật, bon chen, ích kỷ, thị phi triền miên. Để rồi, hằng đêm, tôi luôn luôn phải thao thức, trăn trở, vật vã vì những cái hơn thua, được mất đầy phù du, ảo vọng. Ngoảnh lại đời mình, một chuỗi dài những nhọc nhằn, khắc khoải, toan tính, lo âu. Lắm lúc tôi tự hỏi: Con người sinh ra để làm gì? Tôi sinh ra để làm gì? Phải chăng là để cùng nhau trải nghiệm, thi thố, thể hiện năng lực đấu tranh sinh tồn? Để rồi mai này, khi sức tàn lực kiệt, con người lại trở về hư vô hay sẽ trôi lăn về đâu? Cuộc đời sao thật là vô nghĩa! Một “Phật tử’’ như tôi đã sống như vậy đó. Nhưng rồi, một lần tình cờ tôi đọc được những bài viết trên chuyên mục “Những chuyện kì bí của thế giới tâm linh’’ của tác giả Hoàng Anh Sướng trên báo Thế Giới Mới kể những cuộc tìm mộ liệt sĩ, tìm mộ người thân của các nhà ngoại cảm. À, thì ra đâu phải chỉ có thế giới duy vật là duy nhất hiện hữu quanh ta. Tôi bắt đầu chịu khó gồng mình đọc quyển sách Sống Chết Bình An của Đại sư Sogyal Tây Tạng do mẹ tôi đưa. Càng đọc tôi càng ngạc nhiên. Tôi đọc lại lần thứ hai rồi lần thứ ba. Tôi tò mò vào mạng kiếm tìm và bắt gặp được trang “Chết và tái sinh’’. Tôi bắt đầu cảm nhận một điều gì đó khác lạ và sự đấu tranh tư tưởng về một thế giới sau cái chết là có thật. Một lần đi chùa, một cô Phật tử đưa tôi xem tờ báo Tiền Phong nói về trái tim xá lợi của Bồ tát Thích Quảng Đức. Tôi thấy là lạ và ngạc nhiên. Về nhà lên mạng tìm hiểu thêm, tôi khám phá ra những trang web có liên quan, thấy có nhiều điều mà từ trước đến nay tôi chưa hề biết đến. Thế là từ đó, rảnh rỗi giờ nào là tôi lao vào mạng. Tôi say sưa tìm, nghe, đọc trong niềm thích thú đam mê cứ như thể mình tìm được một báu vật linh thiêng giải đáp mọi thắc mắc và hồ nghi trong tâm của mình. Một hôm, vừa làm việc, vừa mở trang “Thư viện Phật giáo” và nghe cuốn băng “Khuyên người niệm Phật’’ của cư sĩ Diệu Âm. Nghe tới đâu tôi sửng sốt, bàng hoàng tới đó. Tôi bỏ dở mọi công việc, tìm lại cuốn kinh Vô Lượng Thọ và Tây Phương Du Ký đang bị bỏ quên trong tủ. Tôi nghẹn ngào: “Con ngu quá ba ơi’’. Nước mắt tôi chan hòa, ân hận. Hơn nữa đời người thấm đau với đời, giờ tôi mới tỉnh ngộ. Từ đó, tôi tranh thủ từng giây từng phút nghỉ ngơi hiếm hoi để đắm mình say sưa vào các trang web của chùa Hoằng Pháp, A Di Đà thôn, Pháp âm đạo Phật ngày nay, pháp sư Tịnh Không, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, bác sĩ Quách Huệ Trân, các gương vãng sanh… Tôi đọc nghiến ngấu những cuốn sách Tịnh độ mua từ chùa Long Sơn, các hiệu sách lớn ở Nha Trang như kẻ khát gặp được cơn mưa. Giáo pháp của Đức Phật từ bi, trong sáng, trí tuệ, tích cực, mầu nhiệm biết bao. 48 lời thệ nguyện của Từ Phụ A Di Đà đầy yêu thương, bao la và vĩ đại nhường nào. Lòng tôi nở bừng, lan tỏa một niềm phúc lạc vô bờ. Cái mầm Phật pháp héo hắt trong tôi bắt đầu chuyển mình. Kẻ lạc đường đã tìm được địa chỉ cố hương. Cánh cửa giác ngộ trong tôi đã hé mở. Tôi bắt đầu “tập’’ niệm Phật, sám hối và cầu nguyện vãng sanh khi bỏ báo thân. Nhưng sao tôi cứ thấy lóng ngóng. Lý thuyết tôi đã tạm thông, nhưng thực hành lại thiếu tự tin, không biết mình hành có đúng không? Hồi giờ đi chùa tôi đâu hề biết đến pháp tu này. Tôi phải tìm thầy thôi. Tôi cố tâm tìm hiểu những ngôi chùa Tịnh độ ở Khánh Hòa và phát hiện được chùa Linh Sơn Pháp Ấn cách nhà tôi 20km. Vào một buổi chiều mưa vần vũ nhưng không có giờ lên lớp, tôi độc hành tìm đến chùa. Mình mẩy ướt nhèm. Tim tôi đập rộn rã khi lần theo dốc đá vào chánh điện. Thật phước duyên và diễm phúc, tôi gặp được thầy trụ trì. Ánh mắt từ ái, nụ cười cởi mở của thầy làm tôi hết sức tự tin. Tôi kể lể, dốc hết nỗi lòng mà tâm sự, mà thắc mắc với thầy. Thầy từ bi điềm đạm khai tâm mở trí, hướng dẫn tôi phương pháp hành trì. Trước khi ra về, thầy tặng cho tôi một số sách và băng đĩa Phật pháp. Tôi run run đón nhận “báu vật’’ thầy ban mà lòng vô cùng sung sướng. Vài ngày sau, thầy gọi điện cho biết: “Ngày nay là ngày tu, nếu sáng nay bận thì chiều hãy đến chùa tu nửa ngày nghe”. Buổi chiều, tôi hồi hộp đến giảng đường, Phật tử về tu đông quá. Mọi người đang tụng kinh Vô Lượng Thọ. Tôi rón rén tìm chỗ ngồi và cảm xúc lắng nghe. Khi đi kinh hành, bước những bước chân đầu tiên trong tiếng “A Di Đà Phật’’ trầm hùng của đại chúng, tôi đã bật khóc vì sung sướng. Nước mắt tôi rơi lã chã theo từng bước chân. Sau bao năm dãi dầu bước chân trên những con đường vô minh tội lỗi, giờ tôi đã tìm được lối đi đầy ánh sáng. Hai dòng chữ hai bên tôn tượng Phật A Di Đà: “Nhìn thấu, buông xuống, tự tại, tùy duyên, niệm Phật – Chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi” như tiếng chuông cảnh tỉnh dội vào tâm can. Dẫu biết niệm Phật là phải nhất tâm, nhưng tôi không làm chủ được cảm xúc. Đức Từ Phụ ơi! Đứa con lầm đường lạc lối của Ngài nay đã quay về. Tôi đã phát hiện chân lý và bước chân vào cửa Đạo như vậy đó. Bây giờ, tôi đã khác trước rất nhiều. Tín – Nguyện – Hạnh tôi gắng giữ và thực hành. Làm theo lời Phật dạy, giữ ngũ giới, hành thập thiện, buông xả những gì cần buông xả, sám hối các lỗi lầm đã mắc phải. Tôi cảm thấy thanh thản, nhẹ nhàng vô cùng. Tôi cố gắng từ bỏ ngũ dục đã từng hành hạ, làm khổ tôi và tập sống cuộc sống thiểu dục tri túc như ba tôi đã dùng cả cuộc đời của mình mà thực hành. Tôi cũng đã có một đạo tràng ấm cúng để sinh hoạt và tu tập cùng thầy và các bạn đạo. Tôi đã biết quý từng giây từng phút “sống’’ trong hiện tại, cố gắng sửa đổi thân – khẩu – ý tịnh thanh, tâm luôn hướng về Đức Từ phụ A Di Đà, mong mỏi một ngày nào đó được trở về cố hương. Giờ đây, mỗi khi làm giấy tờ, kê khai ký lịch, tôi có thể tự hào và hãnh diện viết vào mục tôn giáo: Phật giáo. Mỗi khi mặc bộ đồ lam đi chùa, tôi vô cùng sung sướng, hạnh phúc. Cầm lá cờ Phật giáo ngũ sắc, lá cờ của Bi – Trí – Dũng trong mỗi dịp lễ Phật đản, lòng tôi lâng lâng nhẹ nhàng. Vì một lẽ hết sức giản đơn: Tôi là Phật tử. Diệu Túy