Người niệm Phật thường bị các bệnh sau: Phan duyên,Hôn trầm, Tán loạn và Vô ký. 1. Phan duyên: là các căn, nhất là mắt, tai, mũi, chạy theo (duyên theo) sắc, thanh, hương… • Đối trị: làm ngơ (xả bỏ) ngoại cảnh, tập trung tâm ý (nhiếp các căn) vào câu Phật hiệu. 2. Hôn trầm: là buồn ngủ, ngủ gục. • Đối trị: thay đổi vị thế, phương cách, nhịp độ như đang tịnh tọa thì đổi kinh hành, hay lễ Phật. Đang niệm thầm thì đổi niệm ra tiếng. Đang niệm ra tiếng hay niệm thầm thì gia tăng tốc độ (niệm nhanh hơn). 3. Tán loạn: là vọng niệm, vọng tưởng khởi dậy quá mạnh, suy nghĩ tứ tung, loạn xạ. • Đối trị: - Áp dụng pháp Phản văn trì danh, miệng niệm tai nghe. Tập trung tinh thần, lắng lòng (thu nhiếp các căn) khởi dậy câu niệm Phật hiệu rành rẽ, rõ ràng từng chữ, từng câu một. - Đối với người sơ cơ (mới tập niệm Phật) dùng pháp trên không hiệu quả thì dùng pháp Thập Niệm Ký Số, như sau: Niệm rành rẽ, rõ ràng bốn chữ hay sáu chữ cũng được, niệm câu nào nhớ câu nấy, không được lần chuỗi, chỉ dựa vào tâm để nhớ. Niệm nhớ đủ mười câu, bắt đầu niệm nhớ lại từ một đến mười. Luân chuyển mãi như thế. Không được quá mười câu. Niệm rõ ràng, nhớ phân minh, nghe rành rẽ, không xen tạp, không gián đoạn, không có kẽ hở, làm sao vọng niệm chen vào được. 4. Vô ký: là trạng thái không hôn trầm, không tán loạn, lưng chừng, mơ mơ, màng màng, nửa thức, nửa ngủ,nửa tỉnh nửa mê. Có người lầm tưởng là đắc định. • Đối trị: giống như tán loạn, hoặc hôn trầm nói trên. Trên đây nói chung cách đối trị tổng quát, mỗi người có căn tánh, trình độ khác nhau nên khéo léo, linh động, uyển chuyển áp dụng cách đối trị của riêng mình. Đại lão Hòa Thượng: Thích Trí Tịnh hiệu đính