Trong kiếp nhân sinh, không phải danh lợi hay tiền tài, cũng không phải bạc vàng hay châu báu, mà chỉ có trái tim thiện lương mới mang đến cho chúng ta hạnh phúc đời đời. Nhân quả báo ứng không chỉ là quan niệm nền tảng của Phật giáo mà còn là tư tưởng xuyên suốt trong các nền văn hoá Á Đông. Giáo lý nhà Phật giảng rằng: “Gieo nhân nào thì gặt quả nấy”, nhân gian cũng có câu: “Thiện ác sau cùng đều báo ứng, chỉ là thời gian sớm muộn mà thôi”. Đây cũng chính là nói, hành thiện sẽ đắc được thiện báo, hành ác thì sẽ gặp phải ác báo. Cho dù bạn là ai, khi dùng thiện tâm để đối đãi với người khác, bạn sẽ nhận được hồi báo hậu hĩnh trong những việc làm thiện ấy. Trong kinh điển nhà Phật có rất nhiều câu chuyện hành thiện nhận được phúc báo, “Bần nữ dâng đèn” là một ví dụ trong số đó. Chuyện kể rằng, khi Đức Phật còn ở tinh xá Cấp Cô Độc viên ở nước Xá Vệ, có một thiếu nữ mồ côi nghèo khổ tên là Nan Đà sống bằng việc xin ăn. Khi chứng kiến từ bậc quốc vương cho tới thần dân, không kể nam nữ già trẻ sang hèn, đều thành tâm cúng dường Đức Phật và chư tăng, Nan Đà thầm nghĩ: “Bởi đời trước mình đã tạo nghiệp quá nhiều nên kiếp này mới bần tiện như vậy, tuy đã gặp được Đức Thế tôn nhưng mình lại không có vật gì đáng để cúng dường cả”. Nghĩ đến đây, Nan Đà không khỏi cảm thấy đau buồn, trong lòng day dứt tự trách mãi không thôi. Mặc dù vậy, cô vẫn luôn mang tâm nguyện có được một lễ vật cúng dường Đức Phật. Nhưng cho dù đã đi xin ăn cả một ngày, cô vẫn chỉ xin được một đồng tiền bé mọn. Cô đã cầm đồng tiền ấy đến tiệm dầu. Chủ tiệm hỏi: “Một đồng đó chỉ mua được chút dầu thôi, có thể dùng vào việc gì đây?”. Nan Đà bèn kể lại tất cả những suy nghĩ trong lòng, khiến ông chủ tiệm rưng rưng cảm động. Ông bèn cho cô số dầu gấp đôi, đủ để thắp một ngọn đèn. Nan Đà rất vui mừng, vội cất bước đi đến tinh xá cúng dường cho Thế Tôn. Cô đặt ngọn đèn giữa muôn vàn ngọn đèn khác trước kim nhan Đức Phật, trong lòng phát nguyện rằng: “Đời này con nghèo khổ, ngoài ngọn đèn dầu sơ sài này thì con không còn vật gì đáng để cúng dường cả. Nhưng con nguyện đem hết thảy công đức cúng dường lần này để mai sau có được ngọn đèn trí huệ, xua đi tăm tối vô minh của chúng sinh, dẫn dắt họ đến bến bờ giác ngộ”. Một đêm đã qua đi, những ngọn đèn khác đều tàn lụi hết cả, duy chỉ có ngọn đèn của cô gái nghèo Nan Đà vẫn bền bỉ chiếu sáng. Ngày hôm sau đúng vào phiên trực của tôn giả Mục Kiền Liên. Ngay từ khi trời còn tờ mờ sáng, ông đã vào trong điện thu dọn đèn đuốc và ngạc nhiên khi thấy chiếc đèn dầu của Nan Đà vẫn đang cháy sáng, hơn nữa dầu đèn và tim đèn lại không vơi đi chút nào, giống như vừa mới được thắp lên vậy. Tôn giả Mục Kiền Liên nghĩ: “Thắp đèn giữa ban ngày cũng không có ích gì, chi bằng hãy thổi tắt nó, đợi đến tối mới thắp lại vậy”. Ông liền lấy tay quạt mạnh nhưng đèn vẫn cháy sáng như cũ, không hề bị dập tắt. Ông lại dùng ống tay áo quạt mạnh hơn nữa, nhưng ngọn đèn vẫn rừng rực sáng. Lúc ấy, Đức Phật mới lên tiếng: “Ngọn đèn dầu này không thể dập tắt được đâu. Dù con có lấy cả nước ở bốn bể dội vào hoặc cuồng phong gió mạnh ùa đến, cũng không thể dập tắt nó được, bởi đây là vật bố thí của người đã phát tâm đại bồ đề”. Đức Phật dứt lời, vừa khéo lại đúng lúc Nan Đà lần nữa đến lễ bái. Đức Phật nhìn cô từ bi và nói: “Con sẽ vào A Tăng Kỳ Kiếp thứ hai đắc đạo thành Phật, Phật hiệu là Đăng Quang”. Sau khi Nan Đà được Đức Phật thọ ký, trong lòng vô cùng vui sướng, bèn xin Đức Phật cho mình xuất gia. Kể từ đó cô trở thành một thành viên của tăng đoàn. Trong cuộc sống thế tục, những ví dụ về thiện tâm cũng nhiều không thể tính đếm Vào thời nhà Minh có một người phụ nữ đơn thân, chồng cô ra biển làm ăn đã nhiều năm nhưng vẫn không thấy quay về. Bởi vì nhớ nhung khắc khoải, mỗi ngày cô đều đứng lên một tảng đá cao lớn nơi bờ biển ngóng chờ. Một ngày kia, mây đen kéo đến mù mịt, nhưng cô vẫn đến bờ biển như mọi lần. Ngoài biển sóng gió nổi lên dữ dội, xa xa là một chiếc thuyền buồm đang lắc lư chao đảo giữa những con sóng lớn mãnh liệt, cuối cùng chiếc thuyền không thể trụ vững nổi và dần dần chìm xuống. Cô không kịp nghĩ ngợi gì thêm, chỉ biết chạy như bay về làng, kêu gọi mọi người ra ứng cứu. Khi người trên thuyền được đưa lên bờ, cô bất chợt nhìn thấy người chồng mà cô vẫn ngày đêm tưởng nhớ. Quả vậy, giúp người trong hoạn nạn lại chính là giúp thân nhân của mình. Trong thế chiến thứ hai, một nhánh quân theo mệnh lệnh tiến vào lãnh thổ của kẻ địch. Trong làn mưa đạn xối xả ấy, một đại đội trưởng vô tình nhìn thấy quả lựu đạn đang bay về phía đồng đội mình, anh đã không màng tính mạng mà lao đến, ôm chầm lấy người đồng đội nằm xuống. “Ầm!” một tiếng nổ vang lên, đại đội trưởng ngẩng đầu lên nhìn mà không khỏi giật mình kinh hãi. Thì ra, đúng vào lúc anh tung mình nhảy lên, một quả đạn pháo khác đã rơi trúng ngay chỗ anh từng ẩn náu lúc đầu, nơi đó giờ đã nổ thành một hố lớn. Còn quả lưu đạn kể trên, không biết nguyên nhân gì lại không hề phát nổ. Vậy nên vị đại đội trưởng đi giải cứu đồng đội lại thành ra cứu lấy tính mạng của mình. Thiện tâm chỉ ở trong một niệm, nhưng thiện quả mà thiện tâm kết được lại có mùi hương thơm ngát lan xa đến nghìn dặm, khiến ai nấy cũng đều mong muốn có được. Một hạt giống gieo xuống đất, người gieo trồng sẽ nếm được mùi vị ngọt thơm của quả chín trong mùa thu hoạch. Khi chúng ta thắp sáng một ngọn đèn nơi nhân thế mịt mùng, ngọn đèn đó cũng đồng thời chiếu sáng bản thân ta. Dù cho cuộc đời tràn đầy gió thảm mưa sầu, thì thiện lương trong tâm ta sẽ giống như ánh mặt trời xuyên qua nỗi đau, sưởi ấm những trái tim. Hãy để mỗi bước chân trên đường đời mang theo tình yêu thương; thiện đãi với hết thảy mọi người, sống đẹp từng mỗi phút giây, để tâm hồn từ đây có được một bến cảng bình thản an vui. Theo ĐKN (St)